Lựa chọn Toà án: việc quan trọng nhưng chưa được coi trọng
Thực trạng áp dụng
“… Mọi vướng mắc phát sinh giữa hai bên trong quá trình thực hiện Hợp đồng, hai bên nhất trí ưu tiên giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thành, Bên A và Bên B đồng ý đưa vụ việc ra Tòa án kinh tế tỉnh X để giải quyết…”.
Trên đây là nội dung thường thấy được ghi nhận trong điều khoản về giải quyết tranh chấp tại rất nhiều bản hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các doanh nghiệp với nhau. Xét về mặt ý thức chủ quan, các bên tham gia giao kết mong muốn giải quyết tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện hợp đồng theo hai bước: một là thương lượng, hòa giải; hai là: đệ trình tới Tòa án nếu việc thương lượng, hòa giải không có kết quả. Thành ý là tốt nhưng thỏa thuận về thẩm quyền giải quyết của tòa án như vậy lại hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Khi thỏa thuận về thẩm quyền giải quyết của tòa án vô hiệu, kế hoạch định sẵn để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đương nhiên sẽ phải thay đổi. Phải lựa chọn một tòa án khác không có trong dự liệu để đề nghị giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp sẽ rơi vào thế bị động, đối diện với nguy cơ mất thời gian và tốn kém chi phí.
Có thể lấy một ví dụ để minh chứng cho điều này: Cty A đặt trụ sở tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ký hợp đồng bán hàng hóa với Cty B đặt trụ sở tại TP Hồ Chí Minh. Điều khoản giải quyết tranh chấp trong Hợp đồng xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp là “Tòa án kinh tế Tòa án nhân dân TP Hà Nội”. Quá trình thực hiện Hợp đồng, Cty B vi phạm nghĩa vụ thanh toán và việc thương lượng không đạt được kết quả khả dĩ nên Cty A quyết định khởi kiện tranh chấp ra tòa án. Tuy nhiên, vì thỏa thuận lựa chọn tòa án trong Hợp đồng bị vô hiệu nên trường hợp này, Cty A phải gửi đơn khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân quận, huyện tại TP Hồ Chí Minh nơi Cty B đặt trụ sở chính. Với một tiến trình tố tụng kéo dài thì rõ ràng, chỉ riêng việc phải đi một khoảng cách rất xa từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh, Cty A sẽ phải bỏ ra rất nhiều chi phí.
Nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do sự nắm vững các quy định pháp luật về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp của người dân nói chung và phần lớn cộng động doanh nghiệp nói riêng còn nhiều hạn chế. Khi dự thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng lại thường dựa vào các bản hợp đồng mẫu có sẵn, không rõ nguồn gốc. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng thường chưa có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn của luật sư tại thời điểm dự thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng mà chỉ đến khi phát sinh tranh chấp mới “tìm đến”…
Quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Để đảm bảo tính hợp pháp đối với thỏa thuận lựa chọn tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp cần phải nắm rõ quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh về vấn đề này.
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10 ngày 2/4/2002 thì tòa án nhân dân cấp huyện không có tòa chuyên trách. Các tòa chuyên trách chỉ được tổ chức tại tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân tối cao. Cần thiết phải lưu ý tên tòa chuyên trách được ghi rõ trong Luật này là: tòa kinh tế, tòa dân sự, tòa hành chính, tòa lao động, tòa hình sự mà không phải là “tòa án kinh tế” hay “tòa án lao động”… Nói cách khác, hệ thống tổ chức của ngành Tòa án Việt Nam hoàn toàn không có tòa án nào được gọi là “tòa án kinh tế”…
Hơn nữa, ghi thẩm quyền giải quyết tranh chấp là “tòa án kinh tế tỉnh X” còn một điểm sai nữa là: theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi năm 2011 thì hầu hết các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện (trừ một số tranh chấp có yếu tố nước ngoài). Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ giải quyết phúc thẩm các vụ án đã được tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết sơ thẩm. Do đó, ngay cả khi có thỏa thuận rằng “Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh X” có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận này cũng vô hiệu do vi phạm quy định pháp luật về thẩm quyền theo cấp của Tòa án.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sđ, bs năm 2011) quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng, trong đó có tranh chấp kinh doanh – thương mại là tòa án nhân dân nơi bị đơn cư trú hoặc đặt trụ sở chính (Điểm a, khoản 1, Điều 35). Nhưng trường hợp giữa các bên tranh chấp có thỏa thuận hợp pháp về việc lựa chọn tòa án nhân dân có thẩm quyền nơi nguyên đơn (bên khởi kiện) cư trú hoặc đặt trụ sở chính thì đây sẽ là tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Điểm, b, khoản 1, Điều 35). Vấn đề là ở chỗ, các bên tham gia thỏa thuận phải hiểu đúng, đầy đủ, chính xác quy định của pháp luật để có được một sự lựa chọn hợp pháp.
Đặc biệt, Điều 36 Bộ luật Tố tụng dân sự còn quy định một số trường hợp nguyên đơn được quyền đơn phương lựa chọn tòa án. Đó là khi tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng mà nơi thực hiện hợp đồng được xác định rõ ràng, tranh chấp có đối tượng là bất động sản hoặc tranh chấp phát sinh với bị đơn mà bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nhiều nơi khác nhau …
Doanh nghiệp nên lựa chọn toa án nào?
Về mặt lý thuyết, “thắng kiện” hay “thua kiện” không phụ thuộc vào việc tòa án nào giải quyết bởi điều này hoàn toàn phụ thuộc vào vấn đề chứng cứ. Tuy nhiên, lựa chọn tòa án nhân dân có thẩm quyền một cách hợp lý trong nhiều trường hợp lại giúp doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí cũng như tạo được sự thuận lợi đối với việc thi hành án sau này.
Nếu hợp đồng không ghi nhận thỏa thuận giữa các bên về thẩm quyền giải quyết của tòa án hoặc sự ghi nhận đó là vô hiệu thì về nguyên tắc, tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết mặc nhiên là tòa án nơi bên bị kiện đặt trụ sở chính, trừ các trường hợp nguyên đơn được lựa chọn tòa án. Quá trình thương thảo hợp đồng, nếu Cty A muốn lựa chọn tòa án nơi “bên mình” đặt trụ sở thì phải ghi nhận trong hợp đồng như sau:
“… Mọi vướng mắc, tranh chấp giữa hai bên phát sinh trong quá trình thực hiện Hợp đồng này được ưu tiên giải quyết thông qua thương lượng. Trường hợp thương lượng không thành, hai bên nhất trí lựa chọn Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội là tòa án có thẩm quyền giải quyết”.
Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp nên sử dụng dịch vụ của các tổ chức hành nghề luật sư để có được sự tư vấn cần thiết, đầy đủ và hợp pháp trước khi xác lập giao dịch với khách hàng, đối tác./.
Luật sư NGUYỄN TRỌNG QUYẾT